Thị trường căn hộ dịch vụ hưởng lợi từ tăng trưởng FDI

Không chỉ giới hạn trong thủ đô, các tỉnh phía Bắc lân cận Hà Nội cũng ghi nhận gia tăng nhu cầu về nhà ở nhờ dòng vốn tăng đáng kể.

Theo báo cáo quý III/2024 của Savills, giá thuê và công suất căn hộ dịch vụ duy trì ở mức ổn định, và đều tăng so với cùng kì năm ngoái. Tỉ lệ lấp đầy ổn định theo quý ở mức 83%, tăng nhẹ 2 điểm % theo năm. 

Giá cho thuê căn hộ dịch vụ tại Hà Nội tính tới quý III/2024 đạt 588 nghìn đồng/m2/tháng, trung bình giảm 2% theo quý, do hạng A giảm 4% và hạng C giảm 2%, nhưng vẫn tăng nhẹ 2% theo năm.

Nguồn cung hạng A của phân khúc căn hộ dịch vụ vẫn tập trung chủ yếu ở Tây Hồ. Trong khi đó, nguồn cung ở Hai Bà Trưng, Gia Lâm, Long Biên đều là hạng B.

Thị trường căn hộ dịch vụ hưởng lợi từ tăng trưởng FDI- Ảnh 1.

Tình hình hoạt động căn hộ dịch vụ quý III/2024 (Nguồn: Savills Việt Nam).

Ông Matthew Powell - Giám đốc Savills Hà Nội lý giải: "Dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài dồi dào và sự mở rộng của các khu công nghiệp thu hút nhiều chuyên gia nước ngoài tới Việt Nam làm việc. Điều này giúp tạo ra nguồn cầu ổn định cho phân khúc căn hộ dịch vụ".

Theo vị lãnh đạo, hiện nay nhiều doanh nghiệp có xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng hoặc rút hoàn toàn dây chuyền sản xuất khỏi Trung Quốc, do chi phí nhân công và sản xuất tại quốc gia này không còn duy trì được tính cạnh tranh như trước.

Trong bối cảnh này, Việt Nam nổi lên như một điểm đến hấp dẫn nhờ vị trí chiến lược tại trung tâm Đông Nam Á. 

Đồng thời, Việt Nam có lợi thế về chi phí nhân công, với mức thu nhập trung bình của ngành sản xuất là 329 USD/tháng, thuộc nhóm thấp nhất trong khu vực. So sánh với các nước lân cận, con số này chỉ cao hơn Indonesia và thấp hơn Trung Quốc khoảng 3,4 lần.

Thị trường căn hộ dịch vụ tại Hà Nội tiếp tục đà tăngĐiều gì làm nên giá trị khác biệt trong căn hộ dịch vụ mang thương hiệu Văn Phú – Invest?Cơ hội nào cho thị trường căn hộ dịch vụ Hà Nội phục hồi?

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng không ngừng đưa ra chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, nhằm tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính tới 8/2024, tổng FDI vào Việt Nam đạt 20,5 tỷ USD, tăng 7% theo năm. 

Vốn FDI thực hiện đạt 14,2 tỷ USD, tăng 8% theo năm, ghi nhận mức cao nhất trong vòng 5 năm qua. 

Riêng tại Hà Nội, vốn FDI đạt 1.476,3 triệu USD, tăng mạnh 71% so với năm trước, 178 dự án mới được cấp phép.

Không chỉ giới hạn trong thủ đô, các tỉnh phía Bắc lân cận Hà Nội như Bắc Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang và Thái Nguyên cũng có dòng vốn đáng kể, gia tăng nhu cầu về nhà ở nhờ thu hút ngày càng nhiều chuyên gia nước ngoài. 

Điển hình, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính tới tháng 9/2024, Bắc Ninh dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,5 tỷ USD, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp 3,47 lần cùng kỳ.

Mặc dù nhu cầu nhà ở từ các chuyên gia nước ngoài đang gia tăng, nguồn cung căn hộ dịch vụ tại các tỉnh này vẫn còn hạn chế. 

Đồng thời, chất lượng sản phẩm nhà ở chưa đáp ứng tiêu chuẩn cao cấp. Do đó, các chuyên gia nước ngoài vẫn có xu hướng lựa chọn Hà Nội để sinh sống nhằm dễ dàng tiếp cận với hệ thống tiện ích đa dạng và nguồn cung nhà ở chất lượng cao.

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kết nối giữa Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia nước ngoài tiếp cận trung tâm thành phố cũng như di chuyển đến các tỉnh lân cận thủ đô. 

Trong đó, có thể kể đến một số các dự án nổi bật như quốc lộ 1A, quốc lộ 18, đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên…

Nhờ nguồn cầu được duy trì ổn định, công suất thuê căn hộ dịch vụ trong quý III/2024 tiếp tục duy trì ở mức 83%, tăng 2 điểm % theo năm.

Tổng lượng nguồn cung phân khúc căn hộ dịch vụ tại Thủ đô quý vừa rồi đạt 6.246 căn và 2.372 căn dự kiến đi vào hoạt động trong năm 2025 từ 4 dự án. Nguồn cung căn hộ dịch vụ tương lai chủ yếu tập trung ở khu vực Nội thành và phía Tây, với 83% tập trung ở khu vực Nội thành và 17% còn lại ở phía Tây.

Link nội dung: https://thuongtruong.net/thi-truong-can-ho-dich-vu-huong-loi-tu-tang-truong-fdi-a103827.html