Tài sản bảo đảm vốn được coi là "lá chắn" giúp ngân hàng phòng ngừa rủi ro tín dụng, đặc biệt với các khoản vay lớn và dài hạn. Thế nhưng, khi khách hàng không hợp tác, "lá chắn" này dễ trở nên vô hiệu nếu ngân hàng không thể thu giữ và xử lý tài sản để thu hồi nợ.
Sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực cuối năm 2023, khoảng trống pháp lý đã khiến hoạt động xử lý nợ xấu rơi vào thế bị động, kéo dài thời gian thu hồi nợ và làm gia tăng rủi ro cho hệ thống tín dụng.
"Nút mở" thúc đẩy xử lý tài sản thông suốt hơn
Thực tế, nhiều ngân hàng cho biết việc xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản đang đối mặt với hàng loạt rào cản pháp lý và thực tiễn. Theo ông Phạm Hồng Hải – Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), các quy định liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản đang được thực hiện không đồng bộ giữa các địa phương, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản.
Ông Hải bày tỏ mong muốn có một hành lang pháp lý thống nhất liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm là bất động sản cho ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, lãnh đạo OCB cũng cho rằng cần tháo gỡ cơ chế chính sách, những nút thắt về thủ tục đầu tư mà hiện nay vẫn đang rất chậm đặc biệt cho các dự án bất động sản.
Nhìn từ phía cơ quan quản lý, ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc NHNN Chi nhánh Khu vực 2 cũng chỉ ra trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vẫn còn phát sinh nhiều tồn tại hạn chế, cũng như trách nhiệm của khách hàng trong vay và trả nợ ngân hàng.

Ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc NHNN Chi nhánh Khu vực 2.
Đồng thời, nhìn vào kết quả thực hiện thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội (Nghị quyết 42) cho thấy sự cần thiết luật hóa một số nội dung của Nghị quyết này nhằm tạo thuận lợi cho quá trình xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Ông Lệnh cho rằng việc luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo nợ vay, góp phần nâng cao trách nhiệm của người vay vốn, đòi hỏi họ phải có trách nhiệm sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích để hoàn trả nợ vay cả gốc và lãi.
Bên cạnh đó, việc luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo hạn chế nợ xấu phát sinh và tăng trưởng tín dụng hiệu quả. Khi thực hiện nguyên tắc hoàn trả, người vay vốn tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích, vốn đi vào sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ, từ đó tạo sản phẩm, tạo thu nhập và có dòng tiền để trả nợ vay ngân hàng.
Điều này sẽ đảm bảo hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh, đồng thời không chỉ góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển mà còn thúc đẩy tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng trưởng toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện để các TCTD tiếp tục mở rộng và tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả.

Nhiều TCTD gặp khó khăn do thiếu cơ sở pháp lý để thu giữ tài sản bảo đảm.
Về góc độ pháp lý, ông Trương Anh Tú - Chủ tịch TAT Law Firm cho rằng việc luật hóa xử lý tài sản bảo đảm không chỉ là bảo vệ ngân hàng, mà là chấn chỉnh lại môi trường tín dụng, giúp doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn dễ hơn và an toàn hơn.
"Sau 7 năm áp dụng Nghị quyết 42, chúng ta đã có đủ dữ liệu thực tiễn, đủ nhận diện những gì hiệu quả và những gì đang "khiếm khuyết". Nếu tiếp tục "vá víu" chính sách bằng cách gia hạn nghị quyết hay ban hành thông tư ngắn hạn, chúng ta sẽ mất đi cơ hội xây dựng một hạ tầng pháp lý mạnh mẽ cho ngành ngân hàng trong 10 - 20 năm tới", ông Tú khẳng định.
Luật hóa nhưng không buông lỏng kiểm soát
Dù việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm được kỳ vọng sẽ tháo gỡ điểm nghẽn lớn trong xử lý nợ xấu, song không ít ý kiến cho rằng cần đặc biệt cẩn trọng để tránh nguy cơ bị lạm dụng.
Nếu không có quy định rõ ràng về giới hạn, trình tự và điều kiện thu giữ, việc trao quyền cho tổ chức tín dụng có thể dẫn đến mất cân bằng trong quan hệ tín dụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên vay và các bên liên quan.
Tại phiên họp Thường vụ Quốc hội, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, thu giữ tài sản bảo đảm không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện, mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ, tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Quy định về trình tự, thủ tục thu giữ phải công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên liên quan.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng.
"Để tránh việc lạm quyền, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) quy định, tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không hạn chế quyền khiếu nại của các bên, đặc biệt là bên bảo đảm và bên đang giữ tài sản bảo đảm.
Hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng Nhà nước", Thống đốc khẳng định.
Đồng tình với định hướng siết chặt hành lang pháp lý nhằm bảo đảm sự công bằng, nhưng đại diện TAT Law Firm cho rằng cần tiến thêm một bước chuyển tư duy từ quản lý rủi ro bằng tòa án sang quản lý rủi ro bằng luật pháp chủ động.
Theo đó, việc xử lý tài sản bảo đảm cần được nhìn nhận như một cấu phần thiết yếu của hệ thống tài chính hiện đại chứ không thể chỉ trông chờ vào thiện chí giữa các bên, hay dựa vào các nghị quyết tạm thời, án lệ rời rạc. "Đã đến lúc Quốc hội cần vào cuộc bằng một đạo luật đủ mạnh, đủ sâu, đủ rõ, để bảo vệ quyền hợp pháp không chỉ của ngân hàng, mà cả doanh nghiệp và người dân", đại diện TAT Law Firm nhấn mạnh.
Dưới góc nhìn thực tiễn, TS. Nguyễn Bích Ngọc - Phó trưởng Bộ môn Ngân hàng Số, khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo kinh nghiệm từ Malaysia – nơi pháp luật cho phép tổ chức tín dụng thu giữ tài sản bảo đảm dựa trên hợp đồng đã được công chứng, mà không cần phán quyết của tòa án.
Tuy nhiên, để đảm bảo sự minh bạch và tránh lạm quyền, cần đồng thời quy định rõ vai trò, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa tổ chức tín dụng với chính quyền địa phương, cơ quan chức năng và các bên liên quan trong quá trình thu giữ, bàn giao và bảo vệ tài sản.
Việc hoàn thiện pháp lý theo hướng này không chỉ góp phần nâng cao tính khả thi trong thực thi quyền thu giữ, mà còn đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, giảm rủi ro tranh chấp và tạo tiền đề cho một môi trường tín dụng minh bạch, lành mạnh hơn.
Bên cạnh hành lang pháp lý, một nền tảng không thể thiếu là hệ thống cơ sở dữ liệu tài sản bảo đảm.
Theo bà Ngọc, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ quốc tế trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về lịch sử pháp lý, giao dịch và hiện trạng của tài sản, đặc biệt là với quyền sử dụng đất. Điều này sẽ giúp tổ chức tín dụng dễ dàng truy xuất nguồn gốc, xác định tính hợp pháp và khả năng xử lý của tài sản thế chấp.
Đồng thời, bà cũng đề xuất nghiên cứu ứng dụng công nghệ blockchain để đăng ký đất đai tích hợp, rút ngắn thời gian giao dịch, xác minh sở hữu theo thời gian thực và nâng cao tính minh bạch.