
Theo thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 9 tháng năm 2025 đạt hơn 8 triệu tấn, trị giá trên 2,06 tỷ USD, tăng 1,3% về lượng và tăng 4% kim ngạch so với 9 tháng năm 2024.
Trong đó, riêng tháng 9/2025 đạt 1,45 triệu tấn, tương đương 338 triệu USD, so với tháng 9 năm ngoái tăng mạnh 25% về lượng, tăng 26% về kim ngạch.
Theo đánh giá của giới chuyên môn, việc Việt Nam nhập khẩu tăng mạnh các mặt hàng nguyên liệu chăn nuôi như ngô, đậu tương,... trong tháng 9 cho thấy nhu cầu sản xuất, chế biến trong nước đang phục hồi tích cực sau giai đoạn mưa bão và dịch bệnh. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào từ một số thị trường lớn như Nam Mỹ đang ở mức cạnh tranh, giúp doanh nghiệp nước ta có cơ hội chủ động hơn trong cân đối nguồn cung.
Achentina là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025, chiếm 54,8% trong tổng lượng và chiếm 54,6% tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước. Việt Nam đã nhập gần 4,5 triệu tấn, tương đương trên 1,1 tỷ USD, giảm về lượng, nhưng tăng 1,6% kim ngạch và tăng 4,3% về giá so với 9 tháng năm 2024. Việt Nam liên tục đứng đầu danh sách các quốc gia nhập khẩu ngô từ thị trường này.
Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, 9 tháng năm 2025 đạt 2 triệu tấn, tương đương 510 triệu USD, chiếm 25,5% trong tổng lượng và chiếm 24,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước.
Bên cạnh 2 thị trường chủ đạo trên, Việt Nam còn nhập khẩu ngô từ thị trường Lào 9 tháng năm 2025 đạt 52.032 tấn, tương đương 11,73 triệu USD. Giá nhập khẩu bình quân đạt 225,4 USD/tấn, giảm gần 10% so với 9 tháng năm 2024.
Theo thông tin từ Văn phòng Thủ tướng Lào, giá trị xuất khẩu nông sản của Lào đạt hơn 1,3 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2025, tương đương 87% kế hoạch xuất khẩu nông nghiệp mà Chính phủ đề ra cho cả năm, cho thấy vai trò ngày càng lớn của ngành nông nghiệp của nước này trong tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngoại tệ quốc gia. Chỉ riêng tháng 9, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Lào đạt 73,5 triệu USD, với các mặt hàng chủ lực gồm chuối, tinh bột sắn, cà phê và ngô ngọt.

Trong khi đó, Việt Nam thuộc một trong số 30 quốc gia trồng ngô lớn nhất trên thế giới nhưng đồng thời cũng nằm trong top các quốc gia nhập khẩu ngô nhiều nhất thế giới đứng sau Trung Quốc, châu Âu, Mexico, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ai Cập.
Ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam tăng trưởng và phát triển khá, với mức tăng trung bình đạt 13-15%/năm. Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, trong sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp, giá nguyên liệu thông thường chiếm khoảng 80-85% so với giá thành sản xuất, nhưng lại chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Mỗi năm, ngành nông nghiệp trong nước chỉ có thể cung cấp 4 triệu tấn cám, 4 triệu tấn sắn làm thức ăn chăn nuôi. Trong khi đó, nhu cầu cần tới 27 triệu tấn, nhưng 70-80% nhu cầu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi còn lại phải nhập khẩu, nhất là các mặt hàng ngô, lúa mỳ, đỗ tương.
Qua rà soát các nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, Bộ Tài chính thấy rằng mặt hàng ngô hạt và lúa mỳ là 2 mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong thành phần thức ăn chăn nuôi hiện đang có thuế nhập khẩu trên mức 0%. Trong đó, ngô có mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 5%.
Do đó, Bộ Tài chính đề xuất với mặt hàng ngô, giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN, mã HS 1005.90.90 từ 5% xuống 3%.
Theo Bộ Tài chính, bên cạnh góp phần bình ổn giá, giảm giá thành đầu vào cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, việc giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN theo phương án dự kiến còn góp phần giảm giá cho ngành sản xuất khác như bánh kẹo, thực phẩm.




