
Chủ tịch FiinGroup, nhận định rằng thách thức lớn nhất của Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam nằm ở việc thiết lập một cơ chế triển khai minh bạch, chuyên nghiệp, đồng thời đi cùng cải cách toàn diện thị trường vốn Việt Nam. Việc lựa chọn hình thức đầu tư, huy động tư nhân tham gia và đảm bảo hiệu quả vận hành mới là yếu tố quyết định thành công của siêu dự án này.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, với tổng mức đầu tư ước tính hơn 67 tỷ USD, đang đặt ra một bài toán huy động vốn chưa từng có trong lĩnh vực hạ tầng, và vượt quá khả năng tài chính của bất kỳ doanh nghiệp Việt Nam nào.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings, thách thức cốt lõi không nằm ở vấn đề "vốn" hay "tiền", mà ở việc thiết lập một cơ chế lựa chọn và triển khai dự án một cách minh bạch, chuyên nghiệp và rõ ràng, đồng thời đi cùng với cải cách toàn diện thị trường vốn Việt Nam.
Ông Thuân phân tích rằng, nếu Nhà nước đầu tư 100% theo hình thức đầu tư công, thì Nhà nước có sự chủ động trong quá trình triển khai, huy động vốn và phương án vốn nhưng rủi ro thực hiện cao, tăng nợ công, trách nhiệm vận hành không chuyên nghiệp như tư nhân; và áp lực nợ vay lên tỷ giá, dự trữ ngoại hối từ việc huy động vốn quốc tế.
Với phương thức ffầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), dự án được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa Chính phủ/ cơ quan có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án. Phương thức này có lợi thế là chia gánh nặng tài chính, phân bổ các khâu triển khai và vận hành… nhưng khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác tư nhân, phức tạp trong việc ra quyết định triển khai xây dựng, khai thác, vận hành và bảo trì.
Còn việc tư nhân đầu tư qua hình thức hình thức BOT với phương án Tài trợ Dự án (Project Finance): Huy động vốn là trách nhiệm của nhà đầu tư và Nhà nước sẽ phải cam kết về giải phóng mặt bằng, đảm bảo ngoại tệ cho chủ đầu tư, phương án hoàn vốn, không đầu tư các dự án gây rủi ro hoàn vốn của dự án. Hình thức BOT cũng có có thể áp dụng cho phương án này và chủ đầu tư xây dựng, vần hành thu hồi vốn, sau đó bàn giao cho nhà nước.
Điểm lợi của phương án đầu tư qua hình thức hình thức BOT là Nhà nước không phải huy động vốn lớn, có điều kiện gắn trách nhiệm của Nhà đầu tư với hiệu quả khai thác, vận hành và Việt Nam nhưng thách thức trong việc lựa chọn những ứng viên là DN tư nhân không chỉ có năng lực về tài chính để tham gia đầu tư mà quan trọng hơn là đủ khả năng thành lập và vận hành một Công ty Dự án để có thể huy động sự tham gia của các thành phần liên quan, ngoài Nhà nước để đảm bảo sự thành công cho Siêu dự án này.

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings.
Theo ông Thuân, phương án tư nhân đầu tư và cấu trúc theo hình thức Tài trợ Dự án (Project Finance) nhưng có sự tham gia của Nhà nước (qua các định chế đầu tư như SCIC và/hoặc DNNN) cùng với tư nhân là hình thức nên được xem xét cho Siêu dự án này.
Lý do là nguồn lực của DN tư nhân dù có lớn hơn nữa mà nếu không có Chính phủ tham gia đầu tư ban đầu với con số khoảng 12-15 tỷ USD thì cũng khó huy động được các Bên khác, nhất là các định chế tài chính và đầu tư trong và ngoài nước, tham gia (như chỉ ra trong Phần III phía sau).
Điểm mấu chốt và khác biệt lớn nhất của phương thức cấu trục dưới hình thức Project Finance và có thể xem xét có sự góp vốn của nhà nước (nhưng để cho Tư nhân chi phối) là phương án có thể xem xét.
Mấu chốt là làm sao là Công ty Dự án (SPV) có thể huy động được khoảng 12 tỷ USD ngay từ ban đầu hay không. Đây là góc nhìn của nhà đầu tư quốc tế bên cạnh các yếu tố khác. Bởi chi phí vốn góp từ các doanh nghiệp tư nhân và kể cả Nhà nước tham gia ban đầu như vậy là thông lệ của các dự án hạ tầng với hình thức Tài trợ Dự này như thế này.
Mức quy mô vốn như vậy mới cơ bản là điều kiện cần để Dự án có mức rủi ro chấp nhận được để các định chế tài chính quốc tế sẽ quan tâm hơn và có thể tham gia. Do đó, Chính phủ có thể giao cho 1 hoặc một số doanh nghiệp tư nhân đầu tư chính nhưng Nhà nước cũng có thể tham gia góp vốn ban đầu nếu như phương án các DN tư nhân đưa ra không thể thực hiện được việc huy động con số khoảng 12 tỷ USD này.
Với phần vốn vay còn lại (khoảng 50 tỷ USD), Chủ tịch FiinRatings cho rằng có thể cân nhắc phân chia và cấu trúc từ các nguồn sau: 30% từ ngân hàng thương mại trong nước (tương đương chỉ khoảng 2% tổng dư nợ toàn hệ thống); 20% từ trái phiếu hạ tầng cho các định chế tài chính, đầu tư, bảo hiểm trong nước (tương đương 10% tổng quy mô AUM ngành quản lý quỹ và ngành bảo hiểm của Việt Nam).
Tiếp theo, 20% từ trái phiếu quốc tế (trong đó 5 tỷ USD dự kiến cần sự bảo lãnh của Chính phủ, phần còn lại vay các đối tác truyền thống của Việt Nam như WB và ADB, JBIC); 20% từ trái phiếu kỳ hạn rất dài (30–50 năm) hoặc trái phiếu vĩnh viễn phát hành rộng rãi cho người dân. Cuối cùng, 10% từ nguồn huy động khác.
Vấn đề cốt lõi nằm ở việc xây dựng chế chế chính sách liên quan là yếu tố quyết định. Từ khâu hình thành dự án, thuê tư vấn quốc tế chuyên nghiệp, lựa chọn chủ đầu tư, và thiết kế hành lang pháp lý, khung chính sách liên quan là yếu tố quan trọng nhất nhằm đảm bảo một hành lang chính sách và rủi ro dự án được đánh giá rõ ràng.
Chính phủ có thể xem xét bảo lãnh đối với phần vốn nợ/ trái phiếu quốc tế: Đối với nguồn vốn huy động trên thị trương vốn nợ quốc tế thì chắc chắn rằng để tạo sự thu hút và hấp dẫn đối với nhà đầu tư là nhà đầu tư định chế nước ngoài thì những khoản vay này chắc chắn đòi hỏi sẽ có sự bảo lãnh của Chính phủ. Điều này sẽ làm gia tăng nợ công của Chính phủ.
Tuy nhiên, điểm tích cực là tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam hiện ở mức khoảng 144 tỷ USD tức chiếm khoảng 30% GPD vào cuối năm 2024. Trong đó thì nợ của Chính phủ ở mức 41,6 tỷ USD vào giữa năm 2023 (nguồn: Bản tin Nợ công của Bộ Tài chính). Thực tế thì mức nợ quốc tế của Việt Nam vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực cả về quy mô lẫn bản chất vì trong đó có một tỷ lệ đáng kể là vốn vay ưu đãi của WB và ADB. Thách thức của chúng ta là làm sao để tăng tỷ lệ nợ công lên đôi chút và vẫn trong tầm kiểm soát (tính cả phần vay nợ nước ngoài và phần Nhà nước bảo lãnh nếu phát hành trái phiếu) nhưng dự án sử dụng vốn phải thành công và tạo ra nguồn thu.
Việc cải cách thị trường vốn, đặc biệt là cho trái phiếu hạ tầng ra đời, trong đó cả trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và có thể là cơ chế đặc thù cho các DN huy động vốn tham gia vào Siêu dự án này. Việc cải cách không chỉ ở phía điều kiện phát hành cho các doanh nghiệp tham gia Siêu dự án này và cả các dự án hạ tầng khác mà quan trọng hơn là khai thông nguồn vốn và tạo một cơ chế đầu tư dài hạn cho phía các nhà đầu tư.
Đồng thời, nâng mức xếp hạng tín nhiệm Quốc gia của Việt Nam để góp phần giảm vốn chi phí vốn quốc tế: Hiện Việt Nam đang được xếp hạng ở mức BB+ (mức rủi ro cao) theo các tổ chức xếp hạng quốc tế và điều này làm cho chi phí vốn huy động của Chính phủ, Ngân hàng và DN trên thị trường vốn quốc tế cao hơn đáng kể so với các nước tương đồng và có tính cạnh tranh trong khu vực như Malaysia, Philipines, Indonesia, Thailand...vốn đều ở mức BBB- trở lên.
Việc nâng cấp xếp hạng tín nhiệm quốc gia không chỉ giúp Việt Nam giảm chi phí vốn mà còn mở ra cánh cửa mới để thu hút dòng vốn đầu tư dài hạn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế. Thực tế thì các DN của Việt Nam (dù tốt đến mấy) thì nếu huy động vốn trên thị trường quốc tế thì cũng chịu lãi suất (all-in, thực tế) cao hơn Fed Fund Rate vốn vẫn tầm 4,5%/ năm vì chịu mức bù rủi ro cao và cao hơn các DN tương đồng về XHTN tại các nước trong khu vực.
Kết luận: Phương án DN tư nhân trong nước làm chủ đầu tư và huy động vốn dưới hình thức Tài trợ Dự án (Project Finance) mà có sự tham gia góp vốn của Nhà nước (trực tiếp hoặc qua định chế đầu tư hoặc DNNN) vào Công ty Dự án sẽ có tính khả thi hơn nếu xem xét trên góc độ tổng thể. Tuy nhiên, để huy động sự tham gia của các thành phần liên quan và nhất là nguồn vốn trong nước và quốc tế thì chúng ta cần có sự thay đổi cả cải cách đồng bộ trên cả thị trường vốn chứ không chỉ xây dựng thể chế cho riêng Dự án Đường Sắt Cao tốc Bắc – Nam này.




